Wednesday, June 24, 2015

Lịch sử Việt Nam qua các thời kỳ

Bụi thời gian làm nhòa đi tất cả Chỉ có tình người còn mãi trong ta

Bụi thời gian làm nhòa đi tất cả
Chỉ có tình người còn mãi trong ta


Dương Vân Nga từ chính sử đến truyền thuyết

Dương Vân Nga, sử cũ chép là Dương Hậu (Hoàng hậu họ Dương) Theo truyền ngôn, thân phụ bà là Dương Thế Hiển, quê ở thôn Nga My, xã Gia Thuỷ (huyện nho Quan) quê mẹ ở thôn Vân lung, xã Gia Vân ( huyện gia Viễn) tỉnh Ninh Bình, sinh thời, cha mẹ chỉ gọi bà là Dương Nương ( cô gái họ Dương), sau khi vào cung Hoa Lư, được gọi ghép tên làng cha với tên làng mẹ thành Vân – Nga. Nhân dân địa phương gọi là Dương Vân Nga.


Năm Giáp Tuất (974), Dương Vân Nga sinh Hoàng thứ tử Đinh Toàn. Lên 5 tuổi, Đinh Toàn được vua cha phong là Vệ Vương . Đêm rằm Trung Thu năm 979, Đại Thắng Minh hoàng đế và Nam  Việt Vương Đinh Liễn bị Nội nhân Đỗ Thích giết hại. Triều thần tôn Vệ Vương Đinh Toàn lên ngôi Hoàng đế, tôn Dương Vân Nga làm Hoàng Thái Hậu . Đinh Toàn lúc này mới lên 6 tuổi. Thập đạo Tướng quân Lê Hoàn được Dương Thái hậu chọn làm Nhiếp chính, sau lại tự xưng là Phó Vương. Định Quốc Công Nguyễn Bặc, Ngoại giáp Đinh Điền và Tướng quân Phạm Hạp ngờ Lê Hoàn chiếm ngôi nhà Đinh. Mới cùng nhau hội binh, chia hai đường thuỷ bộ từ Ái Châu (Thanh Hoá) kéo về Hoa Lư hỏi tội Lê Hoàn, Dương Thái Hậu thấy vậy, lo ngại bảo Lê Hoàn rằng: “Bọn Bặc dấy quân khởi loạn, làm kinh động nước nhà, vua còn nhỏ yếu, không đương nổi hoạn nạn, bọn ông mưu tính thế nào, chớ để sinh tai hoạ về sau. Lê Hoàn mới chỉnh đốn binh mã, đánh bại Nguyễn Bặc, Đinh Điền. Biết Kinh thành Hoa Lư có biến, phò mã Ngô Nhật Khánh dẫn hơn một nghìn chiến thuyền quân Chiêm Thành tiến đánh nước ta. ở biên giới phía Bắc. giặc Tống lợi dụng tình hình đại Cồ Việt rối ren, đang chuẩn bị cất binh xâm lược nước ta.
Thái Hậu Dương Vân Nga sai Lê Hoàn chọn tướng sĩ để chống cự, lại cử Phạm Cự Lượng làm Đại tướng tiên Phong. Khi đang chuẩn bị  cất binh , Phạm cự Lượng cùng các tướng mặc đồ nhung phục, đi thẳng vào triều đường, bảo mọi người rằng: “ thưởng ngưòi có công, giết kẻ không theo mệnh lệnh, là kỷ luật hành quân. Nay Chúa Thượng trẻ thơ, chúng ta dù hết sức liều chết chống kẻ địch bên ngoài, may lập được chút công thì ai biết cho ? Chi bằng trước hãy tôn Thập đạo Tướng quân làm Thiên tử, rồi sau sẽ đem quân đi đánh thì hơn!” Quân sĩ nghe nói thế đều hô “ vạn tuế” thái hậu nghe nói vậy sai hữu Ty đem đủ nghi trượng rước Hoàn vào cung, lấy áo rồng khoác lên mình Hoàn, khuyên Hoàn lên ngôi Hoàng đế”.
Hành động này của Dương thái Hậu bị các đại thần trung thành với nhà Đinh chống lại quyết liệt. Các nhà nho phong kiến và dư luận, kể cả sau này hết sức chỉ trích. Song, trong tình thế đất nước lúc đó hết sức cấp bách bởi nguy cơ xâm lược của nhà Tống đã  hiện ra trước mắt, Dương Thái Hậu đã có cái nhìn vô cùng sáng suốt, đặt lợi ích dân tộc và quốc gia lên trên lợi ích dòng tộc, chọn Lê Hoàn là một thống soái quân đội, dày dạn kinh nghiệm chiến đấu, có khả năng tập hợp và tài năng chỉ huy quân dân ta lúc đó đương đầu với quân xâm lược, loại bỏ được nguy cơ mất nước.
Năm 981, cuộc kháng chiến chống quân Tống thắng lợi, Dương Vân Nga đón Lê Hoàn chiến thắng trở về ở Bến Ngự ( sông Van Sàng, nay thuộc thành phố Ninh Bình).
Năm Nhâm Ngọ (982), Lê đại Hành lập Dương Vân Nga là Đại Thắng Minh Hoàng hậu, là một trong năm hoàng hậu của vua Lê.
Năm Canh Tý (1000), Hoàng hậu Dương Vân Nga qua đời.
Hiện nay, đền thờ Lê Hoàn ở Trường Yên (Hoa Lư), đền vua Đinh, vua Lê ở Trung Trữ (Ninh Giang, Hoa Lư) và đền làng Bách Cốc (xã Thành Lợi, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định) đều có tượng  Dương Vân Nga. Tượng bà ở đền Lê Đại Hành( trường Yên, Hoa Lư, Ninh Bình) gọi là Bảo Quang Hoàng Thái Hậu.

Tuesday, June 23, 2015

Mối quan hệ giữa Anh - Pháp - Mỹ trước nguy cơ chiến tranh thế giới lần thứ II bùng nổ


Chương 2: Mối quan hệ Anh – Pháp – Mỹ trước chiến tranh thế giới lần thứ II
2.1 Chính sách đối ngoại của Anh – Pháp – Mỹ trước nguy cơ thế chiến II bùng nổ
2.1.1 Chính sách đối ngoại của Anh trước nguy cơ thế chiến II bùng nổ
Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất nền kinh tế nước Anh suy giảm thì các nước ngoài châu Âu như Mỹ, Nhật không chịu nhiều hậu quả của chiến tranh, vươn lên mạnh mẽ. Vị thế bá chủ của nước Anh bị lung lay. Anh buộc phải nhân nhượng Mỹ tại hội nghị Vécxai và hội nghị Oashinhton. Anh cùng các nước đế quốc can thiệp vào nước Nga Xô Viết nhưng thất bại. Đến ngày 8/8/1919, Anh kí hiệp định hòa bình, công nhận nền độc lập của Apganixtan. Trong thời kì Công đảng nắm chính quyền, chính phủ của đảng này đã công nhận Liên Xô và có dự định ký kết với Liên Xô. Tháng 7/1922, Anh được Hội Quốc Liên trao cho quyền ủy trị đối với Palextin, kiểm soát tư pháp, đối nội, đối ngoại và đóng quân ở nước này.
Đến năm 1926, Anh thành lập Khối Cộng đồng Anh. Chính phủ Anh tiếp tục chính sách câu kết với Mỹ nâng đỡ Đức, dùng Đức làm công cụ để tấn công Liên Xô. Năm 1927, chính phủ Bảo thủ cắt đứt quan hệ ngoại giao với Liên Xô. Nhưng đến năm 1928 khi Công đảng trở lại cầm quyền, chính phủ Anh 1 lần nữa tái lập quan hệ ngoại giao với Liên Xô. Đến tháng 11/1931, chính phủ Anh ban bố “Quy chế Wesminster” công nhận quyền tự do của các nước tự trị trong các lĩnh vực đối nội và đối ngoại. Mặt khác, Anh dùng chính sách bảo hộ thuế quan, ưu đãi buôn bán trong nội bộ đế quốc, chống lại sự cạnh tranh của các nước đế quốc khác, đã tạo cơ hội cho giới tư bản lũng đoạn Anh phát triển, song lại tăng thêm mâu thuẫn với các nước đế quốc khác.
Nhìn chung trong những năm trước chiến tranh, mâu thuẫn giữa nước Anh với các nước phát xít Đức, Ý, Nhật ngày càng gia tăng nhưng chính phủ Anh vẫn tiếp tục duy trì chính sách ngoại giao bảo thủ, mù quáng, lạnh nhạt với Liên Xô và ve vãn khối phát xít. Giới cầm quyền Anh trước sau đều cự tuyệt lời đề nghị từ phía Liên Xô về một hệ thống an ninh chung, đều mà chính người dân Anh trong cuộc trưng cầu dân ý ngày 27/6/1935 mong muốn. Còn đối với Đức: năm 1935, Anh ký với nước này hiệp ước Hải quân mà thực chất là dung túng cho Đức phát triển lực lượng hải quân với quy mô lớn. Chính phủ Anh tuyên bố cái gọi là “không can thiệp” mà thực chất là khuyến khích cho hành động xâm lược của Đức, Ý, Nhật và hướng ngọn lửa chiến tranh về phía Liên Xô. Tuy nhiên, do vai trò của Liên Xô nên Anh đã nhiều lần thay đổi thái độ. Năm 1934, Anh đề nghị Liên Xô gia nhập Hội Quốc Liên và năm sau Anh cử phái đoàn do ngoại trưởng Antonio Eden sang Matxcơva đàm phán với I.V. Stalin và V.M. Môlôtôp. Song từ năm 1936, Anh lại tìm mọi cách để gây ra cuộc chiến tranh Xô – Đức.
Đến ngày 29/9/1938, Anh ký với Đức Hiệp định không xâm phạm lẫn nhau. Câu tuyên bố của Thủ tướng N. Sămbéclanh với người Anh: “Tôi sẽ mang lại hòa bình cho các bạn” trở thành lời hức hẹn dối trá. Có thể thấy rằng chính những hiệp định này là đỉnh cao của chính sách đối ngoại phản động của nước Anh trong giai đoạn này nhằm thức đẩy Đức tấn công Liên Xô.
2.1.2 Chính sách đối ngoại của Pháp trước nguy cơ thế chiến II bùng nổ
Tháng 11/1919 Cơlêmăngxô lên làm thủ tướng, chính phủ Pháp tìm mọi cách để giải quyết vấn đề Đức theo hướng có lợi nhất cho mình. Nhưng các nước Anh, Mỹ lại không muốn làm yếu Đức thêm nữa. Do vậy, chính phủ Pháp thi hành chính sách chống Nga: cùng Anh, Mỹ can thiệp vũ trang chống Nga Xô Viết, liên minh với một số nước khác bao vây kinh tế Nga. Đồng thời thực hiện chính sách đàn áp thuộc địa. Tuy nhiên, những chính sách đối ngoại này của Pháp không thu lại nhiều kết quả: Pháp phải rút quân khỏi vùng Rua và thất bại trong âm mưu chống Liên Xô.
Năm 1924, Liên minh cánh tả do Đảng Xã hội là nòng cốt lên cầm quyền. Chính phủ này ban bố lệnh ân xá…rút quân khỏi vùng Rua, chấp nhận kế hoạch Đaoxơ, đặt quan hệ ngoại giao với Liên Xô…Tuy nhiên, những hành động thiên hữu (ký hiệp ước Lôcácnô với Đức) đã làm suy giảm uy tín của nước Pháp trên trường quốc tế.
Ngày 27/7/1929, sau khi Bơriăn lên cầm quyền, ông ta muốn thành lập khối liên minh các nước Tây Âu dưới sự lãnh đạo của Pháp. Nhưng kế hoạch không thực hiện được do vấp phải sự chống đối của người dân trong nước và không được 1 số nước tư bản chủ yếu ủng hộ, đặc biệt là Anh, Mỹ [1,tr121]. Tuy nhiên sự kiện này đánh dấu thời kỳ phản động của giới cầm quyền ở Pháp trước khi cuộc khủng hoảng kinh tế nổ ra. Đến tháng 11/1932, chính phủ của Eriô ký hiệp ước không xâm phạm với Liên Xô. Tuy nhiên, đến tháng 9/1938, Pháp cùng với Anh, Đức, Ý ký hiệp ước Muních đã gây ra những làn sóng phản kháng mạnh mẽ từ phía Đảng Cộng sản và đông đảo quần chúng nhân dân Pháp. Do những hành động phản bội của giới cầm quyền Pháp, đến đây nền chính trị Pháp đi vào thời kỳ phản động. Cùng với Anh và Mỹ làm ngơ trước sự lớn mạnh của chủ nghĩa phát xít và hướng cuộc chiến tranh về phía của Liên Xô
2.1.3 Chính sách đối ngoại của Mỹ trước nguy cơ thế chiến II bùng nổ
Ngày 8/1/1918, Tổng thống Mỹ Uynxơn đưa ra kế hoạch 14 điểm với nội dung chủ yếu là quyền tự quyết cho các dân tộc, các nước tham chiến phải giải trừ quân bị, thành lập một tổ chức quốc tế có khả năng giải quyết các xung đột giữa các nước trên thế giới bằng con đường ngoại giao hòa bình. Ngoài ra, kế hoạch này cũng đặt ra nhiều điều kiện tiên quyết với Đức để bắt đầu đàm phán, các dân tộc bị Áo – Hung và Thổ Nhĩ Kỳ thống trị có quyền tự quyết nếu họ muốn tách ra thành các quốc gia độc lập. Về sau, trong ngày độc lập 4/7/1918, Uynxơn nói rõ và gọn hơn mục tiêu của Mỹ trong chiến tranh. Tiếp đó, Tổng thống Uynxơn vượt Đại Tây Dương sang dự Hội nghị Pari.
Đến năm 1921, Warren G.Hardinh người của Đảng Cộng hòa lên làm Tổng thống. Chính phủ của Warren G.Hardinh chủ trương trở lại chủ nghĩa cô lập truyền thống, không tham gia Hội Quốc Liên để khỏi bị ràng buộc. Tháng 8/1921, Mỹ ký hiệp ước riêng lẻ với Đức, để bày tỏ sự không hài lòng với hiệp ước Vécxai, tổ chức hội nghị Oashinton đưa lại nhiều lợi ích cho Mỹ. Tại châu Âu Mỹ đề ra kế hoạch Đaoxơ, rồi Yơng đưa lại sự phục hồi của chủ nghĩa phátxít Đức.
Đến thời của Tổng thống F.Rudơven thì chính sách đối ngoại của Mỹ cũng có những thay đổi lớn. Đối với Mỹ Latinh F.Rudơven tray thế “Chính sách chiếc gậy lớn” can thiệp vũ trang thô bạo bằng “Chính sách láng giềng thân thiện” mềm dẻo  hơn. Trên tinh thần đó, năm 1934, chính phủ Mỹ  đã thương lượng với Cuba và ký kết hiệp ước hủy bỏ “Tu chính án Platt” chấm dứt các cuộc xâm lược vũ trang vào Cuba, Haiti, Đôminit, ký với Panama Hiệp ước về kinh đào hạn chế sự kiểm soát của Mỹ đối với kinh đào này, ký Hiệp ước thương mại với các nước Mỹ La Tinh, hứa hẹn trao trả độc lập. Một ví dụ điển hình là chính sách với Mêxicô. Theo Hiến pháp Mêxicô, chính phủ này quốc hữu hóa các công ty dầu lửa của Mỹ. Thay vì đưa quân can thiệp trước đây, F.Rudơven chỉ đề nghị Mêxicô một khoảng bồi thường tượng trưng. Tuy Mỹ có thiệt thòi về tài chính, song đổi lại họ được sự ủng hộ quý báu của láng giềng trong tương lai. Thực chất của “Chính sách láng giềng thân thiện”  là một biểu hiện sớm của chủ nghĩa thực dân kiểu mới mà Mỹ sẽ sử dụng phổ biến trong tương lai, nhằm đối phó lại với các cuộc đấu tranh chống Mỹ và củng cố địa vị của nước Mỹ ở khu vực Mỹ La Tinh. Thậm chí tại Hội nghị ở Bêunốt, Tổng thống Mỹ kêu gọi các nước Tây bán cầu cùng đoàn kết chống lại nguy cơ xâm lược từ bên ngoài. Trước sau, chính sách này nhằm duy trì sự bốc lột của Mỹ, thu lợi nhuận cho các tập đoàn tư bản lũng đoạn.
Để thực hiện mưu đồ làm bá chủ thế giới sau này, F.Rudơven đưa ra “Chính sách nhằm đúng từ xa” [4,tr129]. Sau 15 năm theo đuổi chính sách chống nước Nga Xô Viết, rồi Liên Xô, chính phủ Mỹ do F.Rudơven đứng đầu đã công nhận và thiết lập quan hệ ngoại giao với Liên Xô. Tiếp đó Mỹ ký kết các hiệp định thương mại với Liên Xô, thúc đẩy thương mại giữa hai nước. Những động thái này cho thấy mặt tích cực của chính sách đối ngoại của Mỹ trong những năm 30. Mặt khác nó xuất phát từ quyền lợi của Mỹ, nhưng về thực chất thì chính phủ Mỹ vẫn theo đuổi chính sách “chống cộng” truyền thống của mình.
Đối với các vấn đề nóng bỏng quốc tế nửa sau thập niên 30, chính phủ Mỹ vừa muốn dùng bàn tay các nước phát xít Đức, Ý, Nhật để chống Liên Xô, đồng thời lại liên minh với Anh, Pháp chống khối đế quốc phátxit. Mục đích của Mỹ là cho các nước đánh nhau, bán vũ khí cho cả hai bên, Mỹ ở giữa hưởng lợi. Đó là chính sách 2 mặt có phần thiếu trách nhiệm trước nguy cơ chủ nghĩa phát xít và chiến tranh đang đe dọa nền hòa bình và an ninh thế giới. Hàng loạt các đạo luật (1935 và 1934) được ban bố để Mỹ giữ vai trò trung lập: cấm bán vật liệu chiến tranh và cấm cho các nước tham chiến vay tiền, cấm công dân Mỹ đi du lịch trên tàu của các nước tham chiến. Các nước muốn mua hàng không bị cấm của Mỹ thì phải trả tiền mặt và tự chở lấy (Luật Cash và Carry). Đối với cuộc giao tranh ngoài biên giới Mỹ: làm ngơ trước hành động xâm lược của phát xít Ý ở Bắc Phi, của Nhật ở Trung Quốc, từ chối lời đề nghị của Liên Xô lập liên minh chống Phát xít. Do đó, chính phủ Mỹ phải chịu một phần trách nhiệm trong việc kí kết hiệp ước Muynich (9/1938), khuyến khích đến dung túng cho chủ nghĩa phátxít phát động chiến tranh thế giới.
2.2 Mối quan hệ giữa ba nước Anh, Pháp và Mỹ trước nguy cơ chiến tranh thế giới lần thứ 2 bùng nổ
2.2.1 Sự hình thành trục đế quốc Anh - Pháp - Mỹ
Mặt dầu giới cầm quyền các nước tư bản phương Tây cố tình xoa dịu mâu thuẫn với các nước phát xít để hướng cuộc chiến tranh về phía Liên Xô, nhưng mâu thuẫn giữa họ là không thể hòa hoản và xoa dịu nổi. Quy luật phát triển không đồng đều và quy luật cạnh tranh đã làm cho mâu thuẫn giữa các nước này ngày một gia tăng, đặc biệt là giữa Anh và Đức.
Các công ty độc quyền Đức đã thu hẹp phạm vi ảnh hưởng của các công ty độc quyền Anh trên các thị trường than và thép ở Hà Lan, Bỉ, Hy Lạp…Đến cuối năm 1937, Đức đã tăng cường vị trí của mình ở các nước Đông Nam Âu và củng cố vị trí của mình ở vùng Trung và Cận Đông, đặc biệt là Thổ.
Về phía mình, Anh cố chống lại Đức bằng cách liên hiệp với Pháp, tổ chức phản công ở Đông Nam Âu và Trung Đông bằng cách cho vay và gây áp lực đối với giới thống trị các nước này. Quan hệ giữa Anh và Đức vì thế mà diễn ra ngày một căng thẳng, đặc biệt là khi Đức đòi lại các thuộc địa  bị giao cho các nước thắng trận sau chiến tranh thế giới thứ nhất: Tây Nam Phi, Camarum, Tôgô [4,tr166].
Bên cạnh đó mâu thuẫn giữa Mỹ và Đức cũng trở nên gây gắt, mâu thuẫn  này bắt nguồn từ sự cố gắng làm bá chủ thế giới của cả 2 nước. Các nước phát xít tấn công vào các vị trí kinh tế của Mỹ ở Viễn Đông và Thái Bình Dương. Đều này không tránh khỏi việc thúc đẩy Mỹ ngày càng xích lại gần với Anh và Pháp hơn. Đưa 3 nước này đi đến một liên minh chính trị quân sự tạm thời do Mỹ lãnh đạo.
Mâu thuẫn giữa Pháp và Đức là do ý muốn thanh toán hệ thống hòa ước Vécxai Oashinhton, thống trị lục địa châu Âu. Ở Rumani, Tiệp Khắc, Thổ, Balan cuộc đấu tranh ngầm giữa các công ty độc quyền Pháp và Đức không ngừng diễn ra. Các liên minh của Pháp ở châu Âu có nguy cơ bị sụp đổ. Những kế hoạch thuộc địa của Đức đe dọa các thuộc địa của Pháp ở châu Phi cũng gây ra sự đe dọa cho giới cầm quyền Pháp.
Mâu thẫu giữa Anh, Mỹ với Nhật cũng ngày càng gây gắt do âm mưu của Nhật muốn độc chiếm Trung Quốc, gạt bỏ quyền lợi của Anh, Mỹ ở Trung Quốc và Đông Nam Á. Hồng thiết lập quyền bá chủ của Nhật ở Thái Bình Dương và Viễn Đông. Đồng thời mâu thuẫn giữa Pháp, Anh với Ý cũng gia tăng do tham vọng của Ý muốn biến Địa Trung Hải thành “cái hồ của Ý” [4,tr166]. Chiếm các tỉnh của Pháp như Nixơ, Xavoa và đất đai của Pháp ở Bắc Phi và những thuộc địa của Anh ở Trung Đông và châu Phi.
Đến tháng 10/1936, ngoại trưởng Ý là Xianô bay sang Đức tiến hành đàn phám với các nhà lãnh đạo Đức về “chính sách chung của 2 nước”. Sau cuộc đàm phán, ngày 1/11/1936 Mútxôlini tuyên bố sự tồn tại của “Trục Béc lin  - Rô ma”. Cũng trong tháng đó, Đức đã ký với Nhật hiệp định chống Quốc tế cộng sản. Một năm sau, ngày 6/11/1937, theo đề nghị của chính phủ Đức, Ý cũng chính thức gia nhập “hiệp định chống Quốc tế cộng sản”. Như thế là đã hình thành nên 1 “Trục tam giác Béclin – Rôma – Tôkiô”.
Trước sự hình thành “Trục tam giác Béclin – Rôma – Tôk ô” thì giới thống trị của ba nước Anh - Pháp - Mỹ cũng phải đưa ra những lời tuyên bố chống chủ nghĩa Phát xít và cam kết ủng hộ lẫn nhau khi bị tấn công. Trục đế quốc Anh – Pháp – Mỹ đã được hình thành.
Như vậy, trước sự hình thành trục tam giác Béclin – Rôma – Tôkyô, các nước Anh – Pháp – Mỹ buộc lòng phải có những cam kết với nhau, trên cơ sở đó trục đế quốc Anh – Pháp – Mỹ hình thành và ngày càng được củng cố. Trong khi Anh và Pháp thì tỏ ra nhân nhượng, không có động thái nào rõ ràng trước hành động bành trướng của chủ nghĩa Phát xít và phần nào đó tiếp tay cho chủ nghĩa phát xít thì Mỹ lại đứng trung lập. Các nước Anh – Pháp – Mỹ do cùng chung quyền lợi, muốn giữ nguyên trật tự thế giới. Họ lo sợ chủ nghĩa phát xít nhưng lại thù ghét chủ nghĩa cộng sản. Vì thế họ đã thi hành chính sách 2 mặt: Một mặt hợp tác với Liên Xô để tăng cường sức mạnh cho mình; mặt khác họ thỏa hiệp và nhượng bộ phát xít để tránh chiến tranh về phía mình và hướng cuộc chiến tranh về phía Liên Xô.
2.2.2 Thái độ của Anh – Pháp – Mỹ đối với các bên tham chiến
2.2.2.1 Thái độ của Anh – Pháp – Mỹ đối với phe phát xít
Mặt dầu mâu thuẫn sâu sắc với chủ nghĩa phát xít song Anh, Pháp và Mỹ luôn muốn dùng bàn tay của chủ nghĩa phát xít để tấn công Liên Xô nên đã thi hành chính sách nhất quán: nuôi dưỡng, dung túng, xoa dịu và nhượng bộ cho chủ nghĩa phátxít dù có phải hy sinh nhiều quyền lợi của mình cũng như của các nước khác. Do vậy, giới cầm quyền Anh – Pháp đã thi hành chính sách nhằm khôi phục chủ nghĩa quân phiệt Đức: “Năm 1924, các nước Anh – Pháp – Mỹ thông qua kế hoạch Đaoxơ cho Đức vay tiền để phát triển kinh tế. Năm 1925 ký hiệp ước Lôcácnô bảo đảm tôn trọng biên giới phía Tây của nước Đức và mời Đức tham gia vào Hội Quốc Liên. Từ đó Đức nghiễm nhiên sánh ngang hành với các nước thắng trận trong Hội Quốc Liên” [3,tr33].
Sau khi phátxít lên nắm chính quyền ở Đức thì quan hệ kinh tế và thương mại giữa tư bản độc quyền Mỹ và Đức được mở rộng và chặt chẽ hơn trước. Hơn 200 công ty tư bản độc quyền Mỹ góp sức vào việc tái vũ trang nước Đức. Tư bản Anh ký với Đức hiệp định hải quân, không quân. Làm như vậy chính phủ Anh – Pháp – Mỹ tin rằng phát xít Đức sẽ dựa vào sự giúp đỡ của họ để tấn công Liên Xô. Còn Hítle thì lợi dụng chính sách chống Liên Xô của Anh – Pháp – Mỹ để chuẩn bị chiến tranh. Y đã từng tuyên bố với các cận thần của Y rằng: “Tôi phải chơi bóng bàn với chủ nghĩa tư bản” [3,tr33].
Chính thái độ làm ngơ này của Anh, Pháp, Mỹ đã khiến cho chủ nghĩa phátxít càng mạnh tay hơn trong việc chuẩn bị cho cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai. Mãi cho đến khi trục tam giác Béclin – Rôma – Tôkyô hình thành thì ba nước Anh, Pháp, Mỹ mới có những động thái để chống lại chủ nghĩa phát xít. Giới cầm quyền của các nước này đã xích lại gần nhau hơn và tuyên bố chống lại chủ nghĩa phát xít. Tuy nhiên, lúc đầu những lời tuyên bố của giới cầm quyền Anh, Pháp, Mỹ chỉ là trên chót lưỡi. Họ không thực sự thực hiện triệt để những gì mà mình đã tuyên bố cũng như không thực hiện triệt để những gì mà ba nước này đã ký kết với Liên Xô.  Với ảo tưởng là có thể lợi dụng được chủ nghĩa phát xít tấn công Liên Xô nên các nhà cầm quyền Anh, Pháp, Mỹ đã thi hành “chính sách không can thiệp” hay “trung lập” và sau này là “chính sách hai mặt”. Những chính sách này đã bọc lộ rõ thái độ dung túng, nhân nhượng, không có động thái rõ ràng của các nước trong khối đế quốc trước hành động bành trướng của chủ nghĩa phát xít. Họ lo sợ chủ nghĩa phát xít nhưng lại thù ghét chủ nghĩa Công sản. Chính đều này là tác nhân quan trọng dẫn đến một cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai­­­_cuộc chiến tranh đã để lại những hậu quả to lớn chưa từng thấy trong lịch sử chiến tranh của nhân loại.
2.2.2.2 Thái độ của Anh – Pháp – Mỹ đối với Liên Xô
Sau khi cách mạng tháng Mười Nga giành thắng lợi, nước Nga Xô Viết ra đời đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và phụ thuộc. Đều này đã đe dọa trực tiếp đến hệ thống thuộc địa của các nước tư bản, đặc biệt là Anh, Pháp, Mỹ. Do vậy, Anh, Pháp, Mỹ luôn có thái độ thù địch với Liên Xô, các nước này tìm đủ mọi cách để ngăn chặn ảnh hưởng cũng như tiêu diệt Nhà nước công nông đầu tiên trên thế giới. Họ nhanh chống thống nhất nguyên tắc phải tăng cường can thiệp vũ trang tấn công Liên Xô, ủng hộ các nước láng giềng Balan, Rumani tấn công, lật đổ chính quyền Xô Viết. Trong giai đoạn này các nước đế quốc Anh, Pháp, Mỹ xem chủ chủ nghĩa cộng sản là mối đe dọa nguy hiểm nhất đến sự thống trị của họ. Cho nên các nước này đã thi hành chính sách hai mặt với Liên Xô: vừa hợp tác với Liên Xô chống phát xít, vừa lợi dụng bàn tay của chủ nghĩa phát xít để tiều diệt Liên Xô. Đều này cho thấy thái độ của Anh, Pháp, Mỹ là nhất quán trong vấn đề tiêu diệt Liên Xô_tiêu diệt bức tường thành của chủ nghĩa cộng sản. Còn những vấn đề khác liên quan đến quyền lợi của nước Liên Xô thì các nước đế quốc lờ đi. Chính nhà lý luận quân sự người Anh đã phải thừa nhận các nước đồng minh “đã làm quá ít” để trả cho nước Nga những gì nước Nga “đã hi sinh để mang lại rất nhiều cho đồng minh” [1,tr178].
Tuy nhiên, khi cuộc chiến tranh thế giới sắp nổ ra, các nước nước đế quốc nhận thấy được mối đe dọa từ chủ nghĩa phát xít đối với lợi ích của chính họ. Những ảo tưởng của các nước này về việc lợi dụng chủ nghĩa phát xít tiêu diệt Liên xô đã tan vỡ. Chính phủ Anh và Pháp mới có xu hướng đàm phán với Liên xô. Tuy nhiên, những tuyên bố đó vẫn là trên chót lưỡi, chưa thật sự thực hiện triệt để những cam kết đối với Liên Xô về vấn đề chống phát xít. Họ vẫn có thái độ bàng quan, thờ ơ, “tọa sơn xem hổ đấu” để làm “ngư ông đắc lợi” trong cuộc chiến này.
Chính thái độ này của ba nước Anh, Pháp, Mỹ đối với phát xít và Liên Xô đã làm cho chủ nghĩa phát xít không còn e dè trong việc chuẩn bị chiến tranh. Họ hô hào “chống chủ nghĩa cộng sản”, “chống Liên Xô” nhưng thật chất đều mà chủ nghĩa phát xít hướng đến là một cuộc chiến tranh để phân chia lại thị trường, phạm vi chiếm đóng và ảnh hưởng trên trường quốc tế.
Chính phủ Anh – Pháp – Mỹ đã có những hành động nhân nhượng, thỏa hiệp, dung túng cho chủ nghĩa phát xít Đức – Ý – Nhật hoành hành nhằm thực hiện những ý đồ chiến lược sâu xa của mình_đó là tiêu diệt Liên Xô. Còn các vấn đề mà Liên Xô đưa lên thảo luận trong thời gian này trong các Hội nghị tại Hội Quốc Liên, những cố gắng về việc thành lập các tổ chức tương trợ bảo vệ an ninh tập thể thì lại không được chấp nhận. Những mâu thuẫn phức tạp và căng thẳng giữa hai khối đế quốc Anh – Pháp – Mĩ và Đức – Ý – Nhật không hề ngăn cản những thỏa hiệp giữa họ, đặc biệt là trong vấn đề chống Liên Xô. Như vậy, với chính sách hai mặt của các cường quốc phương Tây đã tạo điều kiện cho phe phát xít lợi dụng, kéo dài thời gian chuẩn bị mọi mặt hoàn chỉnh để thực hiện dã tâm của mình.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.      Lê Văn Anh (CB), Hoàng Thị Minh Hoa, Đinh Thị Lan, Bùi Thị Thảo (2013), “Lịch sử thế giới hiện đại”, Nxb Đại học Huế.
2.      Đỗ Thanh Bình (chủ biên), Nguyễn Công Khanh, Ngô Minh Oanh, Đặng Thanh Toán (2008), Lịch sử thế giới hiện đại, quyển 1, Nxb Đại học sư phạm.
3.      Hoàng Thị Minh Hoa, Đinh Thị Lan, Trần Thị Vinh (1997), Đại cương lịch sử quan hệ quốc tế, đại học Huế
4.      Nguyễn Lam Kiều, Nguyễn Anh Thái, Nguyễn Xuân Kỳ (1978), Lịch sử thế giới hiện đại (1917-1929), Nxb Giáo dục.
5.       Vũ Dương Ninh (chủ biên), Phan Văn Ban, Nguyễn Văn Tận, Trần Thị Vinh (2010), Lịch sử quan hệ quốc tế từ thời cân đại đến kết thúc thế chiến thứ 2, Nxb Đại học sư phạm.
6.      Lê Văn Quang (2002), Lịch sử quan hệ quốc tế từ 1917 đến 1945, Nxb giáo dục.
7.      Nguyễn Anh Thái (chủ biên), Đỗ Thanh Bình, Nguyễn Quốc Hùng, Vũ Ngọc Oanh, Đặng Thanh Toán, Trần Thị Vinh (2002), Lịch sử thế giới hiện đại, Nxb Giáo dục.
8.      Trần Thị Vinh (chủ biên), Lê Văn Anh (2008), Lịch sử thế giới hiện đại, quyển 2, Nxb Đại học sư phạm.
Một số trang web tham khảo

Đội quân bồ câu đưa tin

Trong chiến tranh, việc truyền tin tức giữ vai trò cực kỳ quan trọng, do đó từ xa xưa, các triều đình đã tổ chức hệ thống thông tin với các dạng thức khác nhau như dùng cờ hiệu, đặt trạm dịch, dùng hỏa đài… và đặc biệt là dùng chim bồ câu để đưa tin. Không rõ việc sử dụng chim bồ câu đưa tin xuất hiện ở nước ta khi nào, nhưng đến giai đoạn kháng chiến chống quân Minh xâm lược, sử sách và giai thoại dân gian có nhắc đến hai nhân vật nổi tiếng là Trần Nguyên Hãn và Nguyễn Chích. Đây là hai danh tướng của nghĩa quân Lam Sơn và sau này là khai quốc công thần của nhà Hậu Lê.
Trần Nguyên Hãn là con cháu nhà Trần, cháu ruột của Trần Nguyên Đán, dòng dõi Thượng tướng Trần Quang Khải, anh em (con cô, con cậu) với Nguyễn Trãi. Ông quê ở xã Sơn Đông (nay thuộc huyện Lập Thạnh, Vĩnh Phúc), lập nhiều công nên khi xét công lao ông được đứng hàng đầu với chức Tả tướng quốc. Trong thời gian kháng chiến, Trần Nguyên Hãn đã dùng những chú chim bồ câu mà ông nuôi dưỡng, huấn luyện để chuyển thư qua lại với chủ tướng Lê Lợi và các đầu mối quân sự khác. Có lần khi đang đóng quân trấn giữ thành Võ Ninh thì bị quân Minh kéo đến vây chặt, tình thế rất nguy khốn, Trần Nguyên Hãn đã viết thư cầu cứu rồi buộc vào chân chim. Nhờ thư do chim câu mang đến, Bình Định Vương Lê Lợi biết được tình hình liền lập tức cho quân tiếp viện đến Võ Ninh phá vỡ vòng vây giải cứu. Sau này Trần Nguyên Hãn với hình ảnh chú chim bồ câu được suy tôn là Thánh Tổ của lực lượng truyền tin nước ta.

Cùng về qui tụ dưới lá cờ nghĩa Lam Sơn còn có một vị tướng cũng có tài nuôi chim bồ câu, ông tên là Nguyễn Chích. Ông người thôn Vạn Lộc, xã Đông Ninh, phủ Đông Sơn (nay là huyện Đông Sơn, Thanh Hóa), trước khi tham gia lực lượng của Lê Lợi thì Nguyễn Chích đã dựng cờ khởi nghĩa ở núi Hoàng Sơn (nay thuộc huyện Nông Cống, Thanh Hóa) lấy thành Yên Mỗ làm căn cứ. Chính ông đã đề xuất kế hoạch vào Nghệ An, tạo nên cục diện mới cho cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
Bố Nguyễn Chích là người thích nuôi chim thả để dự thi nên truyền nghề này cho con, vì thế từ nhỏ ông đã có biệt tài nuôi chim bồ câu rất giỏi. Bồ câu được dạy một cách khéo léo để xem khả năng của mỗi con, người ta đặt một chậu nước giữa sân, rồi cho chim tung cánh lên trời, những con chim nào dạy khéo sẽ bay rất thẳng, đến nỗi, bay cao lên tít mây xanh mà bóng chim vẫn in trong chậu nước. Nguyễn Chích đã tập cho đàn chim của ông bay khéo như vậy và còn luyện cho chúng mang thư từ và đồ nhẹ đến nơi định sẵn và bay trở về.
Khi gia nhập cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, Nguyễn Chích cùng vợ là Nguyễn Thị Bành đã mang cả bầy bồ câu đi theo, nhiều lần, chim câu đã giúp việc truyền tin cho nghĩa quân rất nhanh chóng. Một bận, căn cứ Lam Sơn bị đánh úp trong khi phần đông quân lính được chủ tướng Lê Lợi chia ra, sai các tướng tá dẫn đi các ngả mất rồi, ở doanh trại chỉ có Lê Lợi và Nguyễn Chích cùng mấy trăm quân túc vệ. Giặc Minh ở ngoài vây rất chặt, khó có thể phá được vòng vây hay cử người đi báo tin giải cứu. 
Nguyễn Xí liền thả chim câu đi đưa thư gọi được các cánh quân về cứu viện, trong đánh ra, ngoài đánh vào làm cho vòng vây của giặc tan vỡ, Bình Định Vương Lê Lợi rất khen ngợi, ban thưởng cho Nguyễn Xí và lấy thóc tẩm mật cho chim ăn để bồi dưỡng. Cho đến nay người dân ở vùng đất xứ Thanh Nghệ vẫn lưu truyền bài thơ ca ngợi “đội quân” chim bồ câu của tướng Nguyễn Chích như sau: “Bồ câu bồ các/ Nó hát cúc cù/ Cu đi Quan Du/ Cu về Bù Rộc/ Thư này hỏa tốc/ Phải đợi cu về/ Ăn gạo vua Lê/ Đậu vai ông Chích/ Cu là cu thích/ Lại hát cúc cù!”.
Ngoài những “đội quân” đặc biệt nói trên, trong lịch sử ghi nhận nhiều nhất đến những đội quân voi trận, ngựa chiến đã được người Việt sử dụng từ lâu đời, tạo thành sức mạnh nhiều phen kiến quân thù kinh hồn táng đởm. Bên cạnh đó, trong những tình huống, hoàn cảnh nhất định đã xuất hiện những “đội quân” động vật được sử dụng một lần như “đội quân” vịt, ngỗng có nhiệm vụ cảnh giới, mỗi khi có người sẽ kêu như một cách báo động; “đội quân” rắn độc, như chuyện nghĩa quân của Thiên Hộ Dương ở Đồng Tháp Mười đã dụ quân Pháp vào nơi có hang rắn độc lớn khiến không ít tên giặc bị thiệt mạng, còn người dân thì hào hứng kể cho nhau rằng Thiên Hộ Dương có đạo binh “rắn thần” trợ chiến.
Hay như “đội quân” trâu lửa phá trận với những chú trâu sừng buộc gươm đao lao vào hàng ngũ của đối phương xung sát dữ dội, sách Binh thư yếu lược của Trần Hưng Đạo cũng viết về cách sử dụng lực lượng này như sau: “Dùng con trâu già bỏ đi, buộc dao sắc vào sừng, hai bên mình cặp tre sát vào chân cho không thể quay được, trên lưng đội một ống pháo sắt lớn chứa một đấu thuốc, thuốc để quanh co ở trong pháo; pháo chứa những thuốc liệt hỏa, thần sa, thần hỏa. Phàm khi quân giặc rất nhiều quân ta rất ít, dùng trâu ấy xông vào người ngựa gặp phải tức thì tan nát. Khi xông vào trận giặc thì lửa phát pháo nổ, thế như sấm động, ầm một tiếng không kịp bịt tai. Dù khó nhọc mấy ở trong mấy trùng vây của giặc cũng phá tan được”.

Khi đánh giá về vua Tự Đức, có ý kiến cho rằng ông là một người bán nước hại dân. Theo anh, chị ý kiến đó đúng hay sai?

Tự Đức22 tháng 9, 1829  19 tháng 7, 1883), còn gọi là Nguyễn Dực Tông , là vị Hoàng đế thứ 4 của nhà Nguyễn, vương triều phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Ông tên thật là Nguyễn Phúc Hồng Nhậm  hay còn có tên Nguyễn Phúc Thì . Ông là vị vua có thời gian trị vì lâu dài nhất của nhà Nguyễn, trị vì từ năm 1847 đến 1883, tổng cộng 36 năm.

Triều đại của ông đánh dấu nhiều biến đổi đối với vận mệnh dân tộc. Năm 1858, liên quân Pháp-Tây Ban Nha nổ súng tấn công Đà Nẵng. Trước tình hình người Pháp xâm lấn trong triều đình đặt ra vấn đề cải cách, liên tiếp các năm từ 1864 đến 1881 các quan là Phan Thanh Giản, Phạm Phú Thứ, Nguyễn Trường Tộ, Đinh Văn Điền, Nguyễn Hiệp, Lê Định liên tiếp dâng sớ xin nhà vua cho cải cách toàn diện đất nước nhưng mà vua không quyết dưới sự bàn ra của các đình thần. Mãi đến năm 1878, triều đình mới bắt đầu cử người thực hiện các bước đầu tiên trong quá trình cải cách là cho học tiếng nước ngoài, nhưng đình thần vẫn bất đồng và nảy sinh hai phe chủ trương cải cách và bảo thủ, rồi đến khi nước ta dần rơi vào tay quân Pháp cũng nảy sinh hai phe chủ chiến và chủ hòa, nội bộ dân tộc bị chia rẽ khiến đất nước rời vào cảnh họa xâm lăng_ trở thành thuộc địa của thực dân Pháp.
Liên quan đến vấn đề nhà Nguyễn mất nước, có nhiều ý kiến cho rằng: “Vua Tự Đức là một người bán nước, hại dân”, ý kiến đánh giá này có thật sự đánh giá đúng về con người của Tự Đức hay chưa? Trong khuôn khổ bài viết này em sẽ tập trung làm rõ những công lao và trách nhiệm của vua Tự Đức khi để nước ta rơi vào tay của thực dân Pháp. Từ đó làm sáng tỏ vua Tự Đức có phải  là một con người bán nước hại dân như ý kiến trên đã đánh giá về ông hay không?
Xét trên phương diện quốc tế, lúc bấy giờ chủ nghĩa tư bản đang trên đà xác lập trên phạm vi toàn thế giới. Các nước đế quốc tăng cường xăm lược, mở rộng lãnh thổ, thị trường, khai thác, bóc lột nhân dân các nước thuộc địa. Các nước phương Đông trong đó có Việt Nam trở thành miếng mồi béo bở cho các nước Phương Tây xâm chiếm. Do vậy, dù triều Nguyễn (Tự Đức) có muốn hay không thì thực dân  Pháp vẫn xâm lược nước ta. Cho nên việc mất nước của nhà Nguyễn là một xu thế tất yếu của lịch sử.
Tuy nhiên, chúng ta phải thừa nhận rằng, trong thời gian trị vì của mình, Nhà nguyễn  nói chung và Tự Đức nói riêng đã thi hành những chính sách cai trị làm tổn hại đến lợi ích và vận mệnh của dân tộc như: “bế quan tỏa cảng”; hà khắc với Thiên Chúa giáo (cấm đạo và giết đạo); thực hiện nhỏ giọt hay phất lờ các bản điều trần cải cách của nh ững các bậc sĩ phu yêu nước; đàn áp dã man các phong trào đấu tranh của nhân dân ta, làm cho nguồn nhân lực, vật lực của đất nước ngày càng cạn kiệt, mâu thuẩn dân tộc ngày càng trở nên sâu sắc. Từ đó, tạo điều kiện khách quan thuận lợi cho thực dân Pháp xâm lược nước ta.
Nhưng không phải vì thế mà chúng ta quên đi những đóng góp to lớn của nhà Nguyễn (Tự Đức) cho lịch sử của dân tộc như mở rộng lãnh thổ đến tận đồng bằng sông Cửu Long, xác lập chủ quyền trên vùng đất mới, rồi trên cơ sở đó thống nhất quốc gia trên một lãnh thổ rộng lớn, tương ứng với lãnh thổ Việt Nam hiện đại, bao gồm đất liền và hải đảo. Hay những thành tựu văn hóa của thời Nguyễn (Tự Đức) cũng là một đóng góp to lớn đối với nền văn hóa của dân tôc.
Có thể nói rằng, trong bối cảnh lúc bấy giờ, ý thức hệ phong kiến mà nền tảng là “Nho giáo”  đang chiếm vị thế độc tôn trong xã hội. Không chỉ riêng Tự Đức mà đa số các vị vua triều Nguyễn từ Gia Long đến Bảo Đại cũng như đa số quan lại, sĩ phu lúc bấy giờ vẫn chưa thể vượt qua rào cản này. Hơn nữa không phải là Tự Đức không có ý thức bảo vệ dân tộc trước nạn xâm lăng, ông cũng đã cố gắng tìm đủ mọi cách để bảo về đất nước và cũng như bảo vệ vương triều của mình nhưng do năng lực và nhãn quan chính trị còn hạn chế nên chưa đưa ra được chính sách đúng đắng để giành thắng lợi trước một nước Pháp lớn mạnh.
Vì thế, ý đánh giá về Tự Đức là một ông vua “bán nước, hại dân” chỉ là ý kiến mang tính chất chủ quan, phiến diện từ một phía, chưa soi xét về bối cảnh, ý thức hệ, công trạng của Tự Đức. Do đó, ý kiến đánh giá Tự Đức là một ông vua “bán nước, hại dân” là chưa chính xác và thiếu khách quan.


Phạm Hồng Thái

PHẠM HỒNG THÁI (1896-1924)
Là thanh niên yêu nước
Theo phong trào Đông Du
Hồng Thái nuôi chí lớn
Báo quốc hận, gia thù.

Sáng lập Tâm Tâm xã
Một tổ chức thanh niên
Làm bạo động, ám sát
Cùng một số thành viên.
Như là Hồ Tùng Mậu
Có cả Lê Hồng Phong
Cùng một số đồng chí
Xả thân vì cộng đồng.
Năm một chín hai bốn
Toàn quyền Pháp, Mec-lanh.
Bị Hồng Thái ám sát
Nhưng sự việc không thành.
Hôm ấy ở Khách sạn
Tại Sa Diện, Quảng Châu
Tiếng bom Phạm Hồng Thái
Làm chấn động địa cầu.
Sau khi tiếng bom nổ,
Phạm Hồng Thái đường cùng
Gieo mình xuống sông lớn
Chọn cái chết anh hùng.
Đó là một sự kiện
Gây điên đảo chính trường
Nó biểu hiện bất mãn
Của người dân Đông Dương.
Nó dự báo giông tố
Đang sắp sửa xảy ra
Không thể nào tránh khỏi
Ở xứ Việt Nam ta.
Mai táng Phạm Hồng Thái
Rất chu đáo trang nghiêm
Một đoàn người Trung Quốc
Đứng cúi đầu, lặng im.
Ngôi mộ Phạm Hồng Thái
Tọa trên Nhị Vọng Cương
Hướng Tây Nam, mát mẻ
Đầu dõi về cố hương.
Bao nhiêu người cảm khái
Muốn hành động như anh
Sống làm quả bom nổ
Chết hóa dòng nước xanh

Người khéo dùng oai không giận bậy. Ngưới khéo dùng ơn không cho bậy.

Người khéo dùng oai không giận bậy. Ngưới khéo dùng ơn không cho bậy.

Truyền Thuyết Hai Bà Trưng

     Hai Bà Trưng Trắc, Trưng Nhị là hai chị em ruột, con gái vị Lạc tướng ở huyện Mê Linh (nay là vùng Sơn Tây cũ và tỉnh Vĩnh Phú), thuộc dòng dõi Hùng Vương.
Hai Bà là những phụ nữ tài cao đức trọng và có đảm lược hơn người. Năm 19 tuổi, bà Trưng Trắc kết duyên cùng ông Thi Sách, con trai Lạc tướng huyện Chu Diên (nay là Hà Nam và Nam Hà), cũng là một người bất khuất, có ý chí quật cường.
     Thuở ấy, dân ta sống dưới ách đô hộ của người Hán vô cùng cực khổ.
     Nhà Đông Hán chia nước ta thành quận huyện. Đứng đầu mỗi quận là một viên Thái thú người Hán, còn dưới mỗi huyện phần lớn vẫn để các Lạc tướng người Việt trông coi, theo chính sách "dùng tục cũ mà cai trị".
     Nhưng "dùng tục cũ" cũng chỉ là cái vỏ và chẳng được bao lâu. Bọn cai trị vốn lòng tham không đáy, càng ngày càng vươn dài cánh tay xuống bên dưới bóp hầu bóp cổ dân ta. Nào xuống biển mò ngọc trai, lên rừng săn sừng tê, ngà voi. Rồi tô, thuế. Còn chiếm cả đất lập trang trại. Lại độc chiếm luôn sản xuất và buôn bán muối ...
     Các Lạc tướng cũng bị đối xử tàn tệ. Hạch sách, vòi vĩnh, cấm đoán, xỉ mắng đủ điều.
     Hai gia đình Lạc tướng thông gia với nhau , vốn căm thù sâu sắc bè lũ xâm lược, cùng nhau bàn định rồi chuẩn bị lực lượng, tập hợp dân chúng, rèn đúc vũ khí ... Nhưng sắp đếùn ngày khởi nghĩa thì công việc bại lộ. Thi Sách bị viên Thái thú Tô Định tàn ác, kẻ mới sang thay Tích Quang, giết chết.
     Không hề nao núng, Hai Bà Trưng vẫn tiếp tục sự nghiệp mà Thi Sách đã để lại. Tháng 3 năm 40 (theo dương lịch), Hai Bà phất cờ khởi nghĩa ở Mê Linh.

     Trước đó trên mọi miền đất nước, đã có những cuộc nổi dậy lẻ tẻ. Nay nghe tin hai Bà, vốn là dòng Hùng Vương dấy nghiệp, đều nhất tề đứng lên, Mê Linh đã trở thành nơi tụ nghĩa của đồng bào cả nước.
     Từ Mê Linh, nghĩa quân tiến đánh Luy Lâu (thuộc Thuận Thành, Hà Bắc) là thủ phủ của chính quyền Đông Hán ở Giao Chỉ. Thành Luy Lâu bị hạ, Tô Định phải cắt tóc cạo râu, ăn mặc giả làm con gái, tìm đường lẻn trốn về Nam Hải (thuộc Quảng Tây, Trung Hoa).
     Từ Luy Lâu, nghĩa quân tiến đánh nhiều phủ huyện khác, phối hợp với lực lượng nổi dậy ở các địa phương. Bọn quan lại ở Đông Hán hoảng sợ, có nơi mới chỉ nghe tin nghĩa quân đang đến, đã phải bỏ lại cả của cải, ấn tín, giấy tờ ... để cốt chạy tháo thân về nước.
     "65 huyện thành", nghĩa là toàn bộ nước ta hồi đó đã sạch bóng quân xâm lược. Bà Trưng Trắc được tất cả các tướng sĩ và quân lính suy tôn lên làm vua, đóng đô ở Mê Linh. Bà Trưng Nhị và các tướng lĩnh khác đều được phong tước, chia nhau ra giữ các miền xung yếu. Hai năm liền, mọi người cả nước được miễn tất cả các khoản sưu thuế.
     Đất nước độc lập, nhưng tính về so sánh lực lượng giữa ta và địch thì hãy còn quá chênh lệch. Sau khi thống nhất Trung Hoa, tất cả các chư hầu xung quanh đều phải phục tùng nhà Hán, và đế chế Hán lúc bấy giờ ở vào thời kỳ thịnh đạt nhất của nó.
     Tin Hai Bà Trưng khởi nghĩa và xưng vương đã làm chấn động cả vương triều Hán. Hán Quang Vũ vô cùng tức giận, lập tức hạ lệnh bắt các quận miền Nam (Trung Hoa) lo trưng tập binh mã, sắm sửa thuyền bè khí giới, sửa sang đường sá, tích trữ lương thảo ... để chuẩn bị đánh chiếm lại nước ta.
     Tháng 4 năm 42, vua nhà Hán phong Mã Viện làm "phục ba tướng quân" đem hai vạn quân cùng hai nghìn thuyền xe, vừa thủy vừa bộ, từ Hợp phố (Quảng Đông) tiến thẳng vào vùng Lãng Bạc (Tiên Sơn, Hà Bắc). Mã Viện là viên tướng già có nhiều mưu gian kế hiểm, và thuộc vào loại sừng sỏ nhất của nhà Hán thời đó. Một tay y đã từng đánh dẹp người Khương và đàn áp các cuộc khởi nghĩa trong nước.
     Hai Bà Trưng cùng các tướng lĩnh xuất phát từ Mê Linh xuống Lãng Bạc chống giặc. Tại đây một cuộc chiến đấu ác liệt đã diễn ra. Cuối cùng quân ta yếu thế hơn phải rút lui về Cẩm Khê (Yên Lạc, Vĩnh Phú). Mã Viện đem quân đuổi theo. Tại Cẩm Khê và các vùng lân cận lại diễn ra nhiều cuộc chiến đấu ác liệt nữa, kéo dài gần một năm sau. Hai bên đều bị hao binh tổn tướng. Nhưng quân giặc do đông hơn, lại có nguồn chi viện thường xuyên, còn quân ta lực lượng ít hơn, lại bị chặn các nẻo đường tiếp tế. Cuối cùng, do lực lượng quá chênh lệch, quân ta đã thất bại.
Khi chạy tới vùng cửa sông Hát, thấy không còn cứu vãn nổi tình thế được nữa, Hai Bà Trưng thà chết chứ nhất định không chịu rơi vào tay giặc, đã cùng nhảy xuống sông tự tử. Đó là ngày mồng 6 tháng 2 Âm lịch, (Dương lịch là tháng 3 năm 43).
Các tướng lĩnh khác như các bà Lê Chân, Thánh Thiên, Bát Nàn ... ở các mũi chiến đấu khác, khi sức cùng lực kiệt, cũng đều tự vận theo gương Hai Bà.
Cuộc khởi nghĩa chính đã thất bại, nhưng tại nhiều nơi khác, quân ta vẫn còn tiếp tục chiến dấu. Mãi tới tháng 11 năm 43 Mã Viện vẫn còn phải mở đường qua Tạc Khẩu (Yên Mô, Ninh Bình) để vào quận Cửu Chân (Bắc Trung Phần) đàn áp tướng Đô Dương.
     Hai Bà Trưng là những hậu duệ trực tiếp của các vua Hùng, còn mẹ của Hai Bà, bà Man Thiện, cũng là cháu chắt bên ngoại của vua Hùng. Bà góa chồng sớm nhưng đã nuôi dạy hai con gái thành những trang anh hùng kiệt xuất, mở đầu cho lịch sử chống ngoại xâm vẻ vang của dân tộc. Khi hai con gái và con rể chuẩn bị khởi nghĩa, bà đã không quản đường xa mệt mỏi, đi lại khắp nơi để hẹn ước với nghĩa quân các địa phương. Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng sở dĩ mau chóng thắng lợi là vì các lực lượng trong nước đều nhất tề đứng đậy một lần, làm cho quân giặc trở tay không kịp. Với danh nghĩa là vợ một vị Lạc tướng lẫy lừng, đã đảm đang quán xuyến mọi công việc sau khi chồng chết, nên lời nói của bà được mọi người trong nước tin tưởng và hưởng ứng nhiệt liệt.
     Hiện nay ở làng Nam Nguyễn thuộc Huyện Ba Vì (Hà Tây) còn ngôi mộ của Bà mà mọi người trong vùng vẫn gọi là mả Dạ. "Dạ" là tiếng Việt cổ, để chỉ một bà già được kính trọng.
     Thiên Nam ngữ lục, áng sử ca dân gian cuối thế kỷ thứ 17, đã ghi lại lời Bà Trưng Trắc trên đàn thề trước nghĩa quân ở Mê Linh để chuẩn bị xuất trận như sau: Một xin rửa sạch nước thù Hai xin nối lại nghiệp xưa họ Hùng Ba kẻo oan ức lòng chồng Bốn xin vẹn vẹn sở công lênh này. Đó là tính chất chính nghĩa của cuộc khởi nghĩa, là ý chí nguyện vọng của cả dân tộc lúc bấy giờ.
     Các tướng lĩnh trong cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng có rất nhiều, đặc biệt, phần lớn là các tướng nữ.
     Theo điều tra chưa đầy đủ hiện nay ở nhiều làng thuộc Bắc Phần và Bắc Trung Phần có thờ thần Thành Hoàng nguyên là các tướng lĩnh của Hai Bà Trưng ngày trước như:
     -Bà Lê Chân ở Hải Phòng.
     -Bà Bát Nàn ở Thái Bình.
     -Bà Thánh Thiên, Diệu Tiên, Vĩnh Huy, Liễu Giáp, Ả Tắc, Ả Di ở Hà Bắc.
     -Bà Bảo Chân, Nguyệt Thai, Nguyệt Độ ở Hải Hưng.
     -Vợ chồng Đào Lý, Nàng Tía, Quốc Nương, Khỏa Ba Sơn, Ông Đống, Ông Nà, ở ngoại thành Hà Nội.
     -Chu Thước, Đỗ Năng Tế, Hoàng Đạo, Liên Quang Cai ở Hà Tây.
     -Ba anh em họ Trương ở Quảng Ninh.
     -Năm mẹ con bà Lê Thị Hoan ở Thanh Hóa, v.v ...
     Nhân dân Tày, Nùng ở Việt Bắc đến nay vẫn còn nhớ nhiều truyền thuyết về tổ tiên xưa của họ đã từng tham gia vào cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng.
     Từ bao đời nay, Hai Bà Trưng đã trở thành biểu tượng cho lòng yêu nước, ý chí quật cường bất khuất của toàn dân tộc.
     Ở Hà Nội, Hà Tây, và nhất là ở Vĩnh Phú, đều có lập đền thờ Hai Bà.
     Tên của Hai Bà được đặt cho quận, đường phố, và trường học khắp cả nước ...

Nhà Tây Sơn

Nhà Tây Sơn (家西山) hay Vương triều Tây Sơn (西山朝; Tây Sơn triều) (kéo dài từ 1788 đến 1802 khi vua Gia Long lên ngội) là triều đại được ra đời trong giai đoạn khởi nghĩa nông dân của ba anh em Tây Sơn và thành lập vương triều này trong bối cảnh tranh chấp quyền lực cuối thời Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam.


Tên "Tây Sơn" được dùng để chỉ các nhà lãnh đạo cuộc khởi nghĩa (anh em nhà Tây Sơn) theo cách gọi của các đa số các sử gia, nhất là các sử gia hiện đại tại Việt Nam; Tây Sơn cũng được dùng làm tên cuộc chiến của Tây Sơn, cũng dùng để chỉ gọi triều đại của anh em nhà Tây Sơn.
Tuy nhiên vương triều này tồn tại không lâu thì Nguyễn Ánh đã tiến hành một cuộc chiến tranh toàn diện để thống nhất lãnh thổ, thành lập và chịu sự quyền hành của nhà Nguyễn, điều này đã gây một cuộc nội chiến toàn diện trong thời gian này, đối với Nhà Nguyễn, nhà Tây Sơn bị xem là giặc phản loạn.